Đội hình Thụy Sĩ xuất sắc nhất mọi thời đại
Thụy Sĩ đã tìm thấy một số thành công ở giai đoạn đầu của bóng đá quốc tế. Họ đã giành huy chương bạc tại Thế vận hội 1924, để thua Uruguay hùng mạnh trong trận Chung kết. Họ đã lọt vào tứ kết Vòng chung kết World Cup 1934 và 1938. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, họ đã vượt qua được 6 vòng chung kết World Cup, 4 lần lọt vào vòng hai. Năm 1954, họ lọt vào tứ kết với tư cách chủ nhà. Năm 2014, họ đánh bại nhà vô địch châu Âu và cuối cùng là Tây Ban Nha ở trận mở màn.
Thụy Sĩ và Áo là đồng chủ nhà của UEFA Euro 2008, nơi người Thụy Sĩ lần thứ ba góp mặt tại giải đấu này, nhưng đã không thể lần thứ ba đi tiếp từ vòng bảng. Sau đó, họ đã lọt vào bán kết Nations League 2019. Năm 2021, họ lọt vào tứ kết Giải vô địch châu Âu. Họ đánh bại đội chủ nhà World Cup là Pháp ở vòng 16 đội trước khi thua trong loạt sút luân lưu trước Tây Ban Nha.
Đây là đội bóng mọi thời đại của tôi cho Thụy Sĩ . Nếu có một kỳ World Cup mọi thời đại, đây sẽ là 23 cầu thủ tôi sẽ mang đến giải đấu.
GK: Frank Sechehaye
Frank Sechehaye đã tham gia Thế vận hội mùa hè 1928 và FIFA World Cup 1934. Anh đã chơi tổng cộng 37 trận cho Thụy Sĩ. Anh bắt đầu sự nghiệp của mình với FC Thônex, trước khi ký hợp đồng với Etoile-Carouge FC. Sau đó anh đến chơi ở Pháp với Câu lạc bộ Français ở Paris. Sau đó, ông trở lại Thụy Sĩ để chơi với Servette FC từ năm 1931 đến năm 1934. Ông kết thúc sự nghiệp của mình tại FC Lausanne-Sport.
GK: Erich Burgener
Erich Burgener đã 64 lần khoác áo Thụy Sĩ từ năm 1973 đến 1986. Anh được nhớ đến với trận hòa không bàn thắng trước Anh tại Wembley năm 1977. Anh bắt đầu sự nghiệp câu lạc bộ của mình với FC Raron. Anh chơi cho Lausanne từ năm 1970 đến 1981. Anh chuyển đến Servette FC vào năm 1981 và ở đó cho đến năm 1987. Trong một trận đấu, anh được sử dụng ở vị trí tiền đạo và ghi một bàn thắng.
GK: Yann Sommer
Sommer đã chơi cho Basel, nơi anh ấy đã vô địch Swiss Super League bốn lần liên tiếp trước khi chuyển đến Mönchengladbach vào năm 2014. Anh ấy cũng đã giành được Swiss Challenge League và hai Cúp bóng đá Liechtenstein khi cho Vaduz mượn.
Sommer có trận ra mắt đầu tiên cho Thụy Sĩ vào năm 2012. Anh đã đại diện cho quốc gia này tại World Cup vào năm 2014 và 2018, và giải vô địch châu Âu vào năm 2016 và 2020.
RB: Severino Minelli
Severino Minelli được coi là một trong những hậu vệ phải xuất sắc nhất châu Âu trong lịch sử. Anh ấy đã có 80 lần khoác áo Thụy Sĩ tại một thời điểm vì anh ấy chơi ở Cúp Quốc tế Trung Âu. Anh ấy đã chơi trong trận Chung kết WC 1934 và 1938. Năm 1938, Thụy Sĩ loại Đức, một đội được tăng cường bởi các cầu thủ Áo bổ sung ở vòng đầu tiên. Đối với sự nghiệp câu lạc bộ của mình, anh ấy đã chơi cho FC Zurich, Grasshopper và Serviette FC.
RB: Stephan Lichtsteiner
Kể từ năm 2006, Stephan Lichtsteiner đã có hơn 90 lần khoác áo đội tuyển. Anh đã chơi ở Euro 2008, Chung kết World Cup 2010, 2014 và 2018. Anh chơi cho Grasshopper Zurich ở Thụy Sĩ và Lille ở Pháp. Anh ấy chuyển đến Ý vào năm 2008, gia nhập Lazio đầu tiên và sau đó, Juventus vào năm 2011. Tại thời điểm viết bài, anh ấy được coi là một trong những hậu vệ cánh phải hay nhất đang chơi ở Serie A.
CB: Stephane Henchoz
Stephane Henchoz đã khoác áo 72 lần và chơi ở cả hai nhà vô địch châu Âu năm 1996 và 2004. Ở cấp độ câu lạc bộ, anh bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình ở Thụy Sĩ. Anh đã chơi thành công với Hamburger SV và Blackburn Roves trước khi gia nhập Liverpool. Anh ấy được nhớ đến nhiều nhất khi chơi hơn 5 năm với Liverpool. Trong mùa giải 2000-2001, Liverpool đã giành được Cup run run (FA Cup, League Cup và UEFA Cup).
CB: Rudolf Ramseyer
Ramseyer đã 59 lần chơi cho Switzeland từ năm 1920 đến năm 1931. Anh ấy đã có một số lần khoác áo đội tuyển lớn nhờ Thụy Sĩ tham dự Cúp Quốc tế Trung Âu. Ông đã tham dự Thế vận hội vào năm 1924 và 1928. Năm 1924, ông đã chơi 6 trận đấu với Thụy Sĩ giành huy chương bạc. Anh ấy đã chơi với BSC Young Boys và FC Bern. Anh ấy đã giành được một chức vô địch với BSC Young Boys trong mùa giải 1919-1920. CB: Oliver Eggimann Eggimann đã có 44 lần khoác áo đội tuyển Đức từ năm 1941 đến năm 1955. Anh ấy có trận ra mắt trong trận đấu với Đức vào năm 1941. chơi cho Thụy Sĩ trong FIFA World Cup 1950 và 1954, trận chung kết mà Thụy Sĩ là chủ nhà năm 1954. Đối với sự nghiệp câu lạc bộ của mình, anh ấy cũng đã chơi cho BSC Young Boys, FC Lausanne-Sport, Servette FC, ES FC Malley và FC La Chaux-de-Fonds.
CB: Alain Geiger
Alain Geiger là cầu thủ khoác áo nhiều thứ hai trong lịch sử bóng đá Thụy Sĩ với 112 lần khoác áo. Anh có trận ra mắt vào năm 1980 trong trận đấu với đội tuyển Anh. Anh ấy là đội trưởng ở cả hai trận Chung kết World Cup 1994 và Giải vô địch châu Âu năm 1996. Ở cấp độ câu lạc bộ, anh ấy bắt đầu với FC Sion vào năm 1977. Anh ấy đã dành phần lớn sự nghiệp của mình để chơi ở Thụy Sĩ với một thời gian ngắn chơi cho AS Saint-Étienne trong Pháp từ năm 1988 đến 1990. Anh cũng chơi cho Grasshopper, Neuchâtel Xamax và Servette FC.
LB: Willi Steffen
Ban đầu, Steffen đến Anh để học tiếng Anh vào năm 1946. Anh ấy đã ký hợp đồng với Chelsea và trở thành người Thụy Sĩ đầu tiên chơi bóng ở Anh. Ông đã chơi 20 trận đấu ở các giải đấu và cúp cho Chelsea trong mùa giải 1946-47. Anh trở lại Thụy Sĩ sau một năm tham gia quân đội. Ông chơi cho Young Boy Bern từ năm 1950 đến năm 1958. Ông đã được giới hạn 28 lần. Anh ấy đã vào đến Chung kết WC 1950.
LB: Ricardo Rodriguez
Rodríguez bắt đầu sự nghiệp của mình tại FC Zürich vào năm 2010. Anh được bán cho VfL Wolfsburg vào năm 2012 với giá 7,5 triệu bảng. Anh đã chơi 184 trận trên mọi đấu trường cho Wolfsburg, ghi 22 bàn thắng và giành DFB-Pokal và DFL-Supercup vào năm 2015. Năm 2017, anh ký hợp đồng với Milan. Kể từ năm 2011, anh ấy đã kiếm được hơn 80 lần khoác áo ĐTQG. Anh ấy đã tham dự World Cup vào năm 2014 và 2018, và chức vô địch châu Âu vào năm 2016 và 2020. Năm 2014, anh ấy được bầu chọn là Cầu thủ Thụy Sĩ của năm.
VCK: Johann Vogel
Vogel đã lọt vào danh sách 94 lần từ năm 1995 đến năm 2007. Anh đã chơi ở Euro 1996, Euro 2004 và Vòng chung kết World Cup 2006. Anh là đội trưởng tại Vòng chung kết World Cup 2006. Anh ấy bắt đầu với Grasshopper ở nhà. Anh được nhớ đến nhiều nhất trong 5 mùa giải khoác áo PSV Eindhoven. Năm 2004-2005, PSV lọt vào bán kết Champions League. Anh ấy cũng có những khoảng thời gian ngắn với AC Milan, Real Betis và Blackburn Rovers.
CM: Ciriaco Sforza
Ciriaco Sforza là một trong những cầu thủ Thụy Sĩ xuất sắc nhất trong kỷ nguyên hiện đại. Anh đã vào đến Chung kết World Cup 1994 và Euro 1996 cho Swizterland. Năm 1993, sau khi giành được giải thưởng “Cầu thủ Thụy Sĩ của năm”, anh chuyển ra nước ngoài chơi bóng ở Đức. Ông có lẽ được nhớ đến nhiều nhất với ba thời kỳ riêng biệt của mình với Kaiserslautern. Trong mùa giải thứ hai của anh ấy, họ đã vô địch Bundesliga vào năm 1998, mùa giải sau khi họ trở lại Bundesliga từ giải hạng dưới. Giữa hai thời kỳ của mình, anh ấy đã chơi cho Bayern Munich và Inter Milan.
CM: Heinz Hermann
Heinz Hermann là cầu thủ khoác áo nhiều nhất trong lịch sử bóng đá Thụy Sĩ. Anh đã giành được 5 danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất của Thụy Sĩ từ năm 1984 đến năm 1988. Vào ngày 1 tháng 7 năm 1977, Heinz Hermann gia nhập từ FC Seefeld Zürich đến Câu lạc bộ Grasshopper Zürich, nơi anh trở thành nhà vô địch giải đấu Thụy Sĩ bốn lần và một lần vô địch cúp quốc gia. Vào cuối mùa giải 1984/1985, anh chuyển đến Neuchâtel Xamax, và sau đó anh chơi cho Servette FC và FC Aarau. Tuy nhiên, anh ấy đã chơi ở một giải đấu quốc tế lớn.
CM: Granit Xhaka
Granit Xhaka bắt đầu sự nghiệp của mình tại Basel. Sau đó, anh chuyển đến đội bóng Bundesliga Borussia Mönchengladbach vào năm 2012. Anh được làm đội trưởng của Borussia Mönchengladbach vào năm 2015 ở tuổi 22. Anh chuyển đến Arsenal vào năm 2016. Năm 2022, anh chuyển đến Chicago Fire ở MLS. Anh ấy đã cân nhắc để chơi cho Albania do người Albania Kosovar của anh ấy. Anh ấy đã đại diện cho Thụy Sĩ từ năm 2011. Anh ấy đã chơi ở Euro 2016, World Cup 2018 và Euro 2020. Anh ấy đã giúp Swizterland vào bán kết của Nations ‘League vào năm 2019. Anh ấy đã có hơn 100 lần khoác áo.
RW: Charles Antenen
Với biệt danh Kiki, Antenen đã vượt qua 56 lần và chơi trong ba trận Chung kết World Cup: 1950, 1954, 1962. Antenen chơi cho FC La Chaux-de-Fonds từ năm 1945 đến năm 1952 và sau đó, từ năm 1954 đến năm 1965, giành được ba chức vô địch Thụy Sĩ và sáu Cúp Thụy Sĩ. Đó là thời kỳ vĩ đại nhất của câu lạc bộ. Giữa hai thời kỳ của mình, anh ấy cũng chơi cho Lausanne Sports trong một mùa giải từ năm 1953 đến năm 1954.
LW: Jacques Fatton
Sinh ra ở Pháp, anh ấy đã ra sân 53 lần và ghi được 28 bàn thắng cho Thụy Sĩ. Anh ấy đã chơi ở hai kỳ World Cup, ghi hai bàn vào năm 1950 và một lần vào năm 1954. Anh ấy đã dành phần lớn sự nghiệp của mình với Servette FC, nhưng anh ấy đã đến chơi cho Olympique Lyonnais vào năm 1954. Với Olympique Lyonnais, anh ấy đã chơi 83 trận, ghi được 33 bàn thắng. Người hâm mộ nhớ đến anh khi ghi hai bàn trong trận derby với AS Saint-Etienne năm 1954.
FW: Alexander Frei
Alexander Frei là cầu thủ ghi bàn hàng đầu mọi thời đại cho Thụy Sĩ. Anh đã chơi cho Euro 2004, Chung kết World Cup 2006, Euro 2008 và Chung kết WC 2010. Anh bắt đầu sự nghiệp của mình tại FC Basel. Anh ấy đã chơi với Rennes ở Pháp và với Borussia Dortmund ở Đức. Tại Pháp, anh là Vua phá lưới giải đấu mùa giải 2004-2005. Năm 2009, anh trở lại FC Basel , nơi anh đã giành chức vô địch Swiss Super League trong cả 4 mùa giải của mình, bao gồm cả đánh đôi với Cúp Thụy Sĩ vào các năm 2010 và 2012.
FW: Josef Hugi
Josef Hugi đã 34 lần khoác áo đội tuyển quốc gia Thụy Sĩ từ năm 1951 đến năm 1960, ghi được 22 bàn thắng. Chơi World Cup 1954 trên sân nhà, ông đã ghi sáu bàn thắng, xếp thứ hai trong giải đấu, giúp ông trở thành tay săn bàn hàng đầu mọi thời đại cho Thụy Sĩ ở các kỳ World Cup. Bắt đầu từ năm 1948, ông đã trải qua 14 mùa giải với Basel. Năm 1962, ông chơi 2 trận cho FC Zurich trước khi đầu quân cho FC Laufen.
ST: Kubilay Turkyilmaz
Là người gốc Thổ Nhĩ Kỳ, có lần Kubilay Turkyilmaz từ chối thi đấu với Thổ Nhĩ Kỳ vì lý do dân tộc của anh ấy. Anh ấy đã chơi vớiAC Bellinzona và Servette FC tại quê nhà trước khi anh gia nhập Bologna FC năm 1990 và Galatasaray năm 1993. Năm 1995, anh trở lại Thụy Sĩ cùng Grasshopper Zurich, vô địch giải đấu hai lần. Giới hạn hơn 60 lần. Anh ấy đã bỏ lỡ vòng chung kết World Cup 1994 tại Mỹ do chấn thương. Anh ấy đã chơi tại Euro 1996. Có thời điểm anh ấy là cầu thủ ghi bàn hàng đầu mọi thời đại cho Thụy Sĩ.
ST : Andre Abegglen
Andre Abegglen đã chơi ở World Cup 1934, nhưng có lẽ được nhớ đến nhiều nhất với cú hat-trick ở World Cup 1938 trước Đức, trong trận thắng Thụy Sĩ với tỷ số 4–2. Trận đấu đã loại bỏ Đức, một đội bao gồm các cầu thủ Áo do kết quả của Anschluss. Đối với bóng đá câu lạc bộ, anh ấy đã ghi 83 bàn sau 82 trận đấu cho Grasshopper. Sau đó, ông chơi cho Sochaux, nơi ông là nhà vô địch giải đấu vào các năm 1935 và 1938, và là tay săn bàn hàng đầu của năm 1935.
ST: Max Abegglen
Trong suốt sự nghiệp của mình, Abegglen chơi cho FC Lausanne cho đến năm 1923 khi ông chuyển đến Grasshopper Zurich. Ông là anh trai của André ‘Trello’ Abegglen và Jean Abegglen. Abegglen đã chơi cho Thụy Sĩ 68 lần, ghi được 34 bàn thắng. Anh ấy là cầu thủ ghi bàn hàng đầu mọi thời đại cho đội cho đến khi Kubilay Türkyilmaz ghi bàn thứ 34 trong trận đấu thứ 62 và là trận đấu cuối cùng của anh ấy vào năm 2001.
ST: Stephane Chapuisat
Stephane Chapuisat đã được chọn là Cầu thủ vàng Jubilee của UEFA của Thụy Sĩ. Anh cũng được bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Thụy Sĩ (1992, 1993, 1994 và 2001). Ở cấp độ quốc tế, anh ấy đã chơi 103 lần cho Thụy Sĩ từ năm 1989 đến 2004. Anh ấy đã vào đến Chung kết World Cup 1994, Euro 1996 và Euro 2004. Đối với sự nghiệp câu lạc bộ của mình, anh ấy đã chơi đáng chú ý cho Borussia Dortmund từ năm 1991 đến 1999. Anh ấy đã giành chức vô địch Vô địch giải đấu năm 1997 và Bundesliga năm 1995 và 1996.