Đội hình Ba Lan mạnh nhất mọi thời đại

Ba ​​Lan lần đầu tiên tham dự Vòng chung kết World Cup vào năm 1938. Họ đã chơi một trận thư hùng với Brazil, nơi Ernst Wilimowski ghi được 4 bàn thắng. Tuy nhiên, trong 34 năm sau đó, bóng đá Ba Lan không tạo được dấu ấn nào khác trên trường quốc tế. Sau đó, Ba Lan đã có kỷ nguyên Vàng từ năm 1972 đến 1986. Họ đã giành được Huy chương vàng Olympic vào năm 1972.

 Và sau đó, tiến vào bán kết Vòng chung kết WC năm 1974 và 1978. Năm 1974, Ba Lan có lẽ là đội tuyển vĩ đại nhất từ ​​trước đến nay của họ (thậm chí là vượt qua Wlodzimierz Lubanski đã bỏ lỡ trận Chung kết). Anh hùng của họ thực sự bắt đầu với Vòng loại World Cup với Anh tại Wembley năm 1973.

Họ đã hòa Anh và loại bỏ chúng trong tiến trình. Đó được coi là một trong những đêm đen nhất của nước Anh trong lịch sử bóng đá của họ. Sau đó, Ba Lan về thứ ba tại Vòng chung kết WC.  Grzegorz Lato kết thúc với tư cách là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất.

Một số nhà nghiên cứu lịch sử bóng đá coi Ba Lan 1974 không kém gì Hà Lan và Tây Đức của cùng một giải đấu. Năm 1982, Ba Lan loại Liên Xô ở vòng 2 dưới đám mây của phong trào Đoàn kết những năm 1980.  Họ lại hoàn thành thứ 3. 

Sau trận chung kết World Cup 1986, tiêu chuẩn của bóng đá Ba Lan giảm sút. Họ đã được kỳ vọng rất nhiều tại Vòng chung kết World Cup 2006, nơi họ chơi ở vị trí kế cận Đức, nhưng họ đã không thể vượt qua vòng bảng. Một lần nữa, vào năm 2008, Ba Lan đăng cai giải vô địch châu Âu, nhưng không thể vượt qua chặng thứ hai.

Đây là đội bóng mọi thời đại của tôi cho Ba Lan. Nếu có một kỳ World Cup mọi thời đại, đây sẽ là 23 cầu thủ tôi sẽ mang đến giải đấu. 

GK: Jan Tomaszewski

Jan Tomaszewski được coi là một trong những thủ môn hàng đầu trong lịch sử của trò chơi. Trước trận đấu quan trọng ở Vòng loại World Cup vs Anh năm 1973, Brian Clough đã gọi anh là “gã hề”. Anh ấy đã đáp lại bằng cách chơimột màn trình diễn xuất sắc nhất trong trận đấu mà Ba Lan đã loại Anh và lọt vào Chung kết WC ở Tây Đức. Tại Vòng chung kết World Cup, Ba Lan đã vào đến Bán kết. anh ấy đã giành được 63 lần khoác áo Ba Lan,khiến anh ấy trở thành thủ môn xuất sắc nhất của đất nước mình.

GK: Jozef Mlynarczyk

Jozef Mlynarczyk rời Ba Lan vào năm 1984 để sang phương Tây chơi bóng.  Anh ấy lần đầu tiên chơi ở B astia .  Anh ấy được nhớ đến nhiều nhất trong thời gian thi đấu cho FC Porto, nơi anh ấy đã giành được Cúp C1 châu Âu, Cúp Liên lục địa và Siêu cúp UEFA vào năm 1987. Anh ấy là thủ môn xuất phát cho Ba Lan tại các Vòng chung kết World Cup năm 1982 và 1986. Anh ấy là Cầu thủ Ba Lan của năm 1983. Anh có 42 lần khoác áo đội tuyển từ năm 1979 đến 1986.

GK: Edward Szymkowiak

Edward Szymkowiak là thủ môn từ cuối những năm 1950 và 1960. Ông là thủ môn bắt đầu vào năm 1957 khi Ba Lan đánh bại Liên Xô. Anh ấy là Cầu thủ của Ba Lanmùa giải bốn lần: 1957, 1958, 1965, 1966. Ông đã chơi cho những câu lạc bộ như Ruch Chorzów và Legia Warszawa, nhưng phần lớn sự nghiệp của mình ông đã dành cho Polonia Bytom. Anh ấy là một trong những huyền thoại của câu lạc bộ đó. Sân vận động của Polonia Bytom được đặt theo tên của anh ấy. RB: Antoni Szymanowski Antoni Szymanowski từng là thành viên của đội tuyển bóng đá quốc gia Ba Lan trong hai kỳ FIFA World Cup: 1974 và 1978. Ông đã giành được giải Mô hình vàng tại Thế vận hội 1972 và tham gia vào phiên bản năm 1976. Anh ấy được coi là một trong những hậu vệ vĩ đại nhất của Ba Lan. Anh ấy đã dành phần lớn sự nghiệp của mình cho Wisła Kraków. Anh ấy đã chơi một thời gian ngắn ở Bỉ với Club Brugge vào cuối sự nghiệp của mình. từ năm 1981 đến năm 1984.

RB: Łukasz Piszczek

Lukasz Piszczek là một trong những hậu vệ cánh hàng đầu đang chơi ở Bundesliga. Anh bắt đầu sự nghiệp của mình với Hertha Berlin. Anh ấy là thành viên của đội Borussia Dortmund đã kết thúc với vị trí á quân tại Champions ‘League, trước đó đã chơi cho Hertha BSC và Zagłębie Lubin. Năm 2021, anh gia nhập Goczałkowice-Zdrój. Kể từ năm 2007, anh ấy đã có hơn 66 lần khoác áo Ba Lan. Anh đã tham dự Giải vô địch châu Âu năm 2008, 2012 và 2016, và Vòng chung kết World Cup 2018.

CB: Stanisław Oślizło

Stanisław Oślizło từng là đội trưởng của Górnik Zabrze trong trận chung kết Cup Winners Cup năm 1970 gặp Manchester City. Ông chơi cho họ từ năm 1960 đến năm 1973. Đó là kỷ nguyên vĩ đại nhất của họ. Anh cũng từng chơi cho Odra Wodzisław và sau đó là Górnik Radlin ở Ba Lan trước đó. Anh đã chơi cho Ba Lan 57 lần ghi một bàn (1961–1971). Anh ấy đã chơi ngay trước Thế hệ vàng.

CB: Kamil Glik

Các câu lạc bộ trước đây Glik từng thi đấu bao gồm Piast Gliwice từ 2008 đến 2010, Palermo từ 2010 đến 2011, Torino từ 2011 đến 2016 và Monaco từ 2017 đến 2020, hai câu lạc bộ sau này anh được bổ nhiệm làm đội trưởng của đội. Kể từ năm 2021, anh chơi cho Benevento Calcio. Anh ấy cũng đã chơi cho đội C của Real Madrid tại một thời điểm. Anh ấy đã đại diện cho Ba Lan tại UEFA Euro 2016, FIFA World Cup 2018 và Euro 2020. Đối với Ba Lan, anh ấy đã chơi hơn 90 lần kể từ năm 2010. 

CB: Jerzy Gorgon

Jerzy Gorgon được coi là một trong những cầu thủ phòng ngự vĩ đại nhất của Ba Lan chơi cùng với Władysław Zmuda. VớiGórnik Zabrze, ông đã giành được 5 Cúp Ba Lan liên tiếp vào các năm 1968-72.  Anh ấy đã có 55 lần khoác áo. Anh từng tham dự Vòng chung kết World Cup năm 1974 và 1978. Gorgoń chuyển đến Argentina năm 1978. Anh đã có một thời gian thi đấu không thành công ở đó và trở lại Thụy Sĩ vào năm 1980 để chơi cho FC Gallen.

CB: Władysław Zmuda

Władysław Zmuda có lẽ là hậu vệ xuất sắc nhất của Ba Lan. Anh ấy đã có 91 lần khoác áo đội tuyển Ba Lan và là cầu thủ 4 lần tham dự FIFA World Cup. Anh đã chơi tổng cộng 21 trận tại các vòng chung kết World Cup, trong đó (cùng với Uwe Seeler và Diego Maradona) là trận ra sân nhiều thứ ba từ trước đến nay, chỉ sau Lothar Matthaus và Paolo Maldini. Ở cấp độ câu lạc bộ, anh đã chơi cho Śląsk Wrocław, Widzew Łódź, Hellas Verona, New York Cosmos và US Cremonese.

LB: Adam Musial

Adam Musial đã dành thời gian đẹp nhất trong sự nghiệp của mình với Wisla Krakow. Anh cũng chơi ở Ba Lan cho Arka Gdynia và ở Anh cho Hereford vào năm 1980 và 1983. Anh cũng chơi ở Hoa Kỳ vào cuối sự nghiệp của mình. Anh ấy đã bị giới hạn 34 lần. Ông đã chơi cho Ba Lan tại vòng chung kết World Cup 1974, nơi Ba Lan đứng thứ ba.

LB: Zygmunt Anczok

Anczok đã chơi 48 lần cho Ba Lan từ năm 1965 đến năm 1973, giành huy chương Vàng Olympic năm 1972. Vào thời điểm anh ấy tham gia trò chơi quốc gia, một cầu thủ có tốc độ và sự nhanh nhẹn như vậy thực tế chưa từng được biết đến ở Ba Lan, và anh ấy thường xuyên bị thay ra trong các trận đấu. để mang lại cho các đội của anh ấy sức mạnh bổ sung không chỉ trong phòng thủ mà còn cả tấn công. Ông đã bỏ lỡ World Cup 1974 vì một chấn thương đã kết thúc sự nghiệp quốc tế của mình.

DM: Zygmunt Maszczyk

Zygmunt Maszczyk đã có 36 lần khoác áo đội tuyển Ba Lan tại VCK World Cup năm 1974. Anh đã giành được huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa hè 1972 và một huy chương bạc 4 năm tại Thế vận hội Mùa hè 1976. Anh ấy chủ yếu chơi cho Ruch Chorzów, nơi anh ấy là một biểu tượng. Ông là người đưa Ruch trở thành nhà vô địch quốc gia ba lần (1968, 1974, 1975) và vô địch Ba Lan Cup (1974). Vào cuối sự nghiệp của mình, anh chơi một mùa duy nhất cho Valenciennes FC. DM: Grzegorz Krychowiak

Grzegorz Krychowiak bắt đầu sự nghiệp ở Pháp với Bordeaux, nhưng chủ yếu chơi ở Stade de Reims. Từ năm 2014 và 2016, anh ấy chơi cho Sevilla, nơi anh ấy đã vô địch Europa League mỗi hai mùa giải của mình. Năm 2016, anh gia nhập Paris St Germain, nhưng đã trải qua thời gian cho mượn. Anh ấy đã chơi cho Lokomotiv Moscow. Kể từ năm 2008, anh ấy đã được giới hạn bởi Ba Lan. Anh đã chơi ở Giải vô địch châu Âu 2016 và Chung kết World Cup 2018.

CM: Henryk Kasperczak

Khi còn là cầu thủ, Kasperczak đã tham gia hai kỳ FIFA World Cup với Ba Lan, đạt vị trí thứ ba vào năm 1974. Anh đã giành được huy chương bạc tại Thế vận hội mùa hè 1976. Cùng với Stal Mielec, Kasperczak đã giành được hai chức vô địch Ekstraklasa tại quê hương Ba Lan. Anh cũng từng chơi cho đội dự bị của Legia Warsaw, trước khi kết thúc sự nghiệp của mình ở FC Metz.

RW: Grzegorz Lato

Grzegorz Lato là cầu thủ quan trọng trong kỷ nguyên Vàng của bóng đá Ba Lan, phần lớn bắt đầu từ Thế vận hội năm 1972, nơi họ giành được Huy chương Vàng và kết thúc bằng trận Chung kết World Cup năm 1986.  Ông là cầu thủ ghi bàn hàng đầu tại World Cup 1974. Lato đã dành phần lớn sự nghiệp câu lạc bộ của mình với Stal Mielec và dẫn dắt họ đến chức vô địch giải Ngoại hạng Ba Lan vào năm 1973 và 1976. Năm 1980, anh bắt đầu chơi cho câu lạc bộ Bỉ KSC Lokeren. Anh ấy cũng đã chơi ở Mexico trong mùa giải 1982–83 cho Atlante FC,

LW: Robert Gadocha

Robert Gadocha đã 62 lần vô địch từ năm 1967 đến 1975. Ông cũng là thành viên của Thế vận hội Mùa hè 1972, giành được Huy chương Vàng và cũng như tham dự Vòng chung kết World Cup 1974 tại Wesr Đức. Anh ấy bắt đầu sự nghiệp của mình ở Garbarnia Krakow, nhưng anh ấy đã dành phần lớn sự nghiệp của mình cho Legia Warsaw. Anh cũng chơi trong FC Nantes ở Pháp từ năm 1975 đến 1978 và Chicago Sting ở NASL vào năm 1978.

AM: Kazimierz Deyna

Kazimierz Deynalà một trong những tay chơi vĩ đại nhất từ ​​Đông Âu. Anh ấy đã chơi cho Ba Lan 97 lần, ghi được 41 bàn thắng và thường xuyên là đội trưởng của đội bóng. Ông đã giành được Huy chương vàng trong Thế vận hội Olympic 1972. Anh ấy đã tham dự Vòng chung kết WC năm 1974, nơi anh ấy đã trở thành Đội tuyển của Giải đấu. Anh ấy chơi chủ yếu cho Legia Warsaw. Sau đó, anh chơi cho Manchester City từ năm 1978 đến 1981 và San Diego Sockers vào những năm 1980.

FW: Ernst Wilimowski

Sinh năm 1916, Ernst Wilimowski là người gốc Silesia. Anh là một trong những tay săn bàn xuất sắc nhất trong lịch sử của cả đội tuyển quốc gia Ba Lan và trong bóng đá câu lạc bộ Ba Lan. Anh chơi cho Ba Lan tại WC 1938, nơi anh trở thành cầu thủ đầu tiên ghi 4 bàn trong một trận đấu. Trong Chiến tranh, ông đã trở lại quốc tịch Đức vì tình hình ở Silesia. Ông chơi cho Đức từ năm 1941, có 8 lần khoác áo và ghi được 13 bàn thắng trong sự nghiệp của mình.  

FW/RW/LW: Zbigniew Boniek

Zbigniew Boniek là một trong những game thủ Ba Lan vĩ đại nhất trong lịch sử trò chơi. Anh ấy đã bị giới hạn 80 lần. Boniek lần đầu chơi cho câu lạc bộ Ba Lan Zawisza Bydgoszcz và sau đó là Widzew Łódź. Sau khi đóng vai chính tại Vòng chung kết World Cup năm 1982, anh chuyển đến Ý và chơi cho Juventus cùng với Platini, Zoff và Rossi. Anh ấy đã giành được quả phạt đền ấn định cúp châu Âu năm 1985 cho Juvnetus. Anh ấy là một cầu thủ vĩ đại mọi thời đại với câu lạc bộ. Anh ấy cũng đã chơi cho Roma vào cuối sự nghiệp của mình.

ST: Wlodzimierz Lubanski

Wlodzimierz Lubanski là tiền đạo vĩ đại nhất của Ba Lan.  Anh ấy đã có thời điểm là cầu thủ ghi bàn thắng cao nhất mọi thời đại cho đội tuyển quốc gia Ba Lan. Với đội tuyển quốc gia của mình, Lubański đã có 75 lần khoác áo đội tuyển từ năm 1963 đến 1980, ghi được 48 bàn thắng. Anh ấy đã bỏ lỡ vòng chung kết WC năm 1974 vì chấn thương, nhưng anh ấy đã tham dự vòng chung kết World Cup 1978. Anh chơi cho Górnik Zabrze ở Ba Lan trước khi sang chơi ở phương Tây vào năm 1975.

ST: Gerard Cieslik

Cieslik đã dành toàn bộ sự nghiệp của mình cho Ruch, từ tháng 7 năm 1939 đến tháng 6 năm 1959, nhiệm kỳ bao gồm chiến thắng tại Cúp Ba Lan 1951, và 3 danh hiệu Bậc thầy Ba Lan (1951, 1952, 1953). Tổng cộng, anh đã ghi 177 bàn cho Ruch. Anh ghi được nhiều bàn thắng nhất khi ghi hai bàn vào lưới Liên Xô vào ngày 20 tháng 10 năm 1957 tại Stadion Śląski. Anh ấy đã có tổng cộng 45 lần khoác áo đội tuyển. Anh được FA Ba Lan bầu chọn là cầu thủ vĩ đại nhất của họ vào năm 1969 và là cầu thủ vĩ đại nhất từ ​​trước đến nay trong Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập.

ST: Andrzej Szarmach

Andrzej Szarmach từng chơi trong Thế hệ vàng đầu những năm 1970. Szarmach được hưởng lợi từ sự vắng mặt của Włodzimierz Lubański để dẫn dắt hàng công Ba Lan tại Vòng chung kết World Cup 1974, nơi anh ghi được 5 bàn thắng. Anh đã giành được huy chương bạc tại Thế vận hội năm 1976, nơi anh kết thúc với tư cách là vua phá lưới. Tại Ba Lan, anh chơi cho Górnik Zabrze và Stal Mielec. Sau đó, anh chơi cho AJ Auxerre.

ST: Robert Lewandowski

Tại thời điểm viết bài, Robert Lewandowski là cầu thủ ghi bàn hàng đầu mọi thời đại của Ba Lan. Anh ấy bắt đầu với Znicz Pruszków và Lech Poznań, nhưng anh ấy được biết đến với sự nghiệp của mình với Borussia Dortmund, nơi anh ấy ghi hơn 70 bàn thắng và lọt vào Chung kết Champions ‘League vào năm 2013. Sau mùa giải 2013-2014, anh ấy chuyển sang đối thủ Bayern Munich dưới một tình huống gây tranh cãi. Đối với Ba Lan, anh ấy đã vượt qua 90 lần. Anh đã chơi ở Euro 2012 và 2016, và Chung kết World Cup 2018.

Reply